Ba đế chế kỹ thuật số đối đầu với nhau: Trung Quốc, Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu. Trong cuộc chiến phi vật chất này, quy chế là chìa khóa dẫn đến chiến thắng. Trong một cuộc phỏng vấn phong phú, Anu Bradford[1], giáo sư tại đại học Columbia, bàn về các logic, sự khác biệt và điểm hội tụ của ba mô hình đang chia nhau thế giới. Đó là cuộc chiến giành lấy linh hồn của nền kinh tế kỹ thuật số đang diễn ra.
Trong cuốn sách mới nhất của bà, Đế chế kỹ thuật số/Digital Empires (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2023), bà mô tả ba mô hình quy chế cạnh tranh cho nền kinh tế kỹ thuật số: Mỹ, Trung Quốc và Châu Âu. Những mô hình này là gì và chúng phản ánh các giá trị cơ bản của từng khu vực pháp lý như thế nào? “Đế chế kỹ thuật số” mà bà đề cập đến trong tiêu đề là gì?
ANU BRADFORD – Trong bối cảnh kỹ thuật số đương đại, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên Minh Châu Âu là những “đế chế kỹ thuật số” kinh khủng. Phép ẩn dụ này phản ánh vai trò của họ là sức mạnh công nghệ, kinh tế và quy chế, mỗi đế chế định hình trật tự kỹ thuật số toàn cầu theo các giá trị và hệ tư tưởng riêng của họ. Giống như các đế chế lịch sử, họ mở rộng ảnh hưởng xuyên biên giới, xuất khẩu các mô hình cai quản riêng biệt và do đó thu hút các quốc gia khác vào phạm vi ảnh hưởng tương ứng của họ. Những mô hình này, bắt nguồn sâu xa từ cơ cấu văn hóa và tư tưởng của mỗi đế chế, thể hiện sự mở rộng quyền lực và ảnh hưởng hiện đại sang lĩnh vực kỹ thuật số.
Trọng tâm của các đế chế này là ba mô hình quy chế khác nhau, mỗi mô hình phản ánh một quan niệm khác nhau về chủ nghĩa tư bản kỹ thuật số. Mô hình của Mỹ về cơ bản là theo định hướng thị trường và nhấn mạnh đến quyền tự do ngôn luận và sự đổi mới, với sự can thiệp tối thiểu của chính quyền. Cách tiếp cận này dựa trên niềm tin vào sức mạnh biến đổi của công nghệ đối với sự thịnh vượng kinh tế và sự tiến bộ xã hội. Ngược lại, mô hình của Trung Quốc sử dụng công nghệ như một công cụ kiểm soát chính trị, trong đó chính phủ đóng vai trò trung tâm trong việc hướng dẫn và điều tiết lĩnh vực công nghệ. Về phần mình, Liên Minh Châu Âu ủng hộ cách tiếp cận dựa trên các quyền, trong đó quy chế được thiết kế để bảo vệ các quyền cá nhân và đảm bảo một thị trường kỹ thuật số công bằng, lấy con người làm trung tâm.
Mô hình của Mỹ thể hiện sự tin tưởng lớn vào cơ chế thị trường, thể hiện sự lạc quan nhất định về công nghệ và chủ trương một vai trò can thiệp hạn chế của chính phủ. Quan điểm tự do-kỹ thuật này coi sự can thiệp của Nhà nước là một trở ngại tiềm tàng đối với hiệu quả của thị trường và các quyền tự do cá nhân. Ngược lại, cách tiếp cận của Trung Quốc phản ánh cách nhìn chiến lược về công nghệ nhằm tăng cường sự kiểm soát của Nhà nước và sự ổn định xã hội, thường gây tổn hại đến các quyền tự do cá nhân. Trong trường hợp này, công nghệ đóng vai trò là công cụ kiểm duyệt, giám sát và tuyên truyền, phù hợp với mục tiêu của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Trong bối cảnh kỹ thuật số đương đại, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên Minh Châu Âu là những “đế chế kỹ thuật số” kinh khủng.
ANU BRADFORD
Cái khung của châu Âu có sự khác biệt rõ rệt vì nó ưu tiên các quyền cá nhân và các giá trị dân chủ trong nền kinh tế kỹ thuật số. Mô hình này tìm kiếm sự cân bằng giữa quyền tự do ngôn luận và các quyền cơ bản khác, bằng cách chủ trương sự can thiệp về mặt quy chế để bảo vệ công dân và đảm bảo rằng những lợi ích công bằng sẽ được rút ra từ những tiến bộ kỹ thuật số. Cách tiếp cận này phản ánh mong muốn gắn kết tiến bộ công nghệ với các nguyên tắc của một xã hội dân chủ tự do, rất trái ngược với sự nhấn mạnh của người Mỹ vào thị trường tự do và của người Trung Quốc vào sự kiểm soát của Nhà nước.
Mặc dù những mô hình này có những đặc điểm riêng nhưng chúng cũng có những điểm chung trong nỗ lực cân bằng các lực lượng thị trường, sự kiểm soát của Nhà nước và các quyền cá nhân. Ngay cả ở Hoa Kỳ, mô hình quy chế theo định hướng thị trường chưa bao giờ tồn tại ở dạng thuần túy. Nhưng khi cần phải thỏa hiệp, Mỹ nhìn chung nghiêng về các giải pháp lấy thị trường làm trung tâm, trong khi Trung Quốc ưu tiên lợi ích Nhà nước còn Liên minh châu Âu (EU) tập trung bảo vệ các quyền lợi của công dân. Những nguyên tắc cơ bản này định hình nền kinh tế kỹ thuật số tương ứng của họ và là nguồn gốc của những căng thẳng và xung đột đang diễn ra thường xuyên. Hiểu được những mô hình này là rất quan trọng để nắm bắt được các động năng phức tạp xác định bối cảnh kỹ thuật số toàn cầu và quỹ đạo tương lai của nó.
Bà cho rằng Hoa Kỳ đang thua trong cuộc chiến theo chiều ngang trước hai mô hình còn lại và mô hình quy chế của nước này đang suy thoái. Làm thế nào để giải thích hiện tượng này?
Nền kinh tế kỹ thuật số ngày nay dựa trên nền tảng được xây dựng bởi Hoa Kỳ và các công ty công nghệ chính của nước này. Trong hơn hai thập kỷ, mô hình quy chế theo định hướng thị trường của Hoa Kỳ đã cho phép các công ty công nghệ lớn của Hoa Kỳ mở rộng ra quốc tế. Dưới thời chính quyền Clinton, Bush và Obama, Hoa Kỳ không chỉ bảo vệ các giá trị của thị trường tự do và internet tự do trong nước mà còn chủ động xuất khẩu những giá trị đó sang các nước khác, nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng đối với sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Kết quả là, ngày nay sức mạnh của khu vực tư nhân Mỹ có thể nhìn thấy ở khắp mọi nơi. Người dân trên khắp thế giới giao tiếp bằng các nền tảng trực tuyến của Mỹ và ít ai mong muốn quay trở lại một thế giới không có những công cụ cho phép con người dễ dàng tương tác và chia sẻ thông tin với nhau một cách rất thuận lợi.
Trong hơn hai thập kỷ, mô hình quy chế theo định hướng thị trường của Hoa Kỳ đã cho phép các công ty công nghệ lớn của Hoa Kỳ mở rộng ra quốc tế.
ANU BRADFORD
Nhưng tôi tin rằng lịch trình về mặt quyền tự do internet của chính phủ Hoa Kỳ đã chuẩn bị cho sự biến mất của chính nó, đến mức bị xóa bỏ khỏi các cương lĩnh chính trị trên khắp thế giới. Bất chấp sự ngưỡng mộ thực sự, thậm chí là sự ghen tị của các công ty và chính phủ nước ngoài đối với sự thành công của các công ty công nghệ Mỹ, những công ty này cũng là đối tượng của những chỉ trích ngày càng gay gắt trên khắp thế giới. Tác động có hại từ hoạt động kinh doanh của những công ty công nghệ khổng lồ này đối với các nền kinh tế và công ty nước ngoài đang ngày càng được cảm nhận mạnh mẽ hơn, làm dấy lên sự bất bình và thúc đẩy các lời kêu gọi giảm bớt quyền lực và ảnh hưởng của chúng trên khắp các vùng pháp lý. Những thiệt hại gắn với các công ty này, đặc biệt là sự lạm dụng quyền lực trên thị trường, các vi phạm quyền riêng tư được lặp đi lặp lại, sự bình thường hóa thông tin sai lệch và ngôn từ kích động lòng căm thù, cũng như việc gây bất ổn cho các nền dân chủ, gây nên sự bức xúc ngày càng tăng. Những thất bại này cho thấy nền kinh tế kỹ thuật số của Mỹ thường không thực hiện được lời hứa tự do-công nghệ là khuếch đại nền dân chủ và các quyền tự do cá nhân, làm suy yếu giả định cơ bản rằng dân chủ tự do là hệ quả tất yếu của một thị trường công nghệ tự do.
Tuy nhiên, ngay cả khi những người ra quyết định ở Mỹ nhận ra những hạn chế trong mô hình định hướng thị trường của họ thì việc diễn giải nhận thức này về mặt pháp lý vẫn tỏ ra khó khăn. Sự chán ghét của những người theo chủ nghĩa tự do công nghệ đối với các quy chế đã được nuôi dưỡng trong những năm qua bởi những nỗ lực vận động hành lang bền bỉ của ngành công nghệ. Ngoài ra, những rối loạn chức năng chính trị của Quốc hội Mỹ hiện nay đã làm tê liệt mọi nỗ lực lập pháp quan trọng, và hệ thống tư pháp Mỹ có lẽ vẫn chưa sẵn sàng cho một “cuộc cách mạng chống độc quyền”.
Nhiều tiếng nói đang nổi lên ở Hoa Kỳ để yêu cầu một cách tiếp cận quy chế kỹ thuật số gần hơn với cách tiếp cận của Liên Minh. Nhưng chẳng phải việc cạnh tranh với Trung Quốc có nguy cơ dẫn đến “sự san bằng về quy chế từ đáy” sao?
Hoa Kỳ đang ở trong một tình huống độc nhất. Một mặt, ngày càng có nhiều sự bất mãn với cách tiếp cận quy chế theo định hướng thị trường của họ. Mặt khác, sự cạnh tranh gay gắt với các siêu cường khác sẽ hạn chế khả năng của họ để triển khai những thay đổi quan trọng. Nói cách khác, cuộc chiến theo chiều ngang giữa các chính phủ khác nhau và cuộc chiến theo chiều dọc giữa chính phủ và các công ty công nghệ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính phủ Hoa Kỳ do dự đặt các công ty công nghệ của mình vào quy chế một cách quá mạnh mẽ vì sợ hạn chế khả năng đổi mới của chúng, vì chiến lược như vậy có thể làm suy yếu Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh theo chiều ngang với Trung Quốc để giành vị trí bá chủ công nghệ. Do đó, vấn đề mấu chốt mà chính quyền Mỹ phải đối mặt là làm thế nào để dung hòa giữa nhu cầu cải cách quy chế và sự duy trì lợi thế công nghệ cũng như khả năng cạnh tranh của họ trong bối cảnh toàn cầu.
Còn Trung Quốc thì sao? Chúng ta thường có xu hướng nghĩ ở đây là một vấn đề về sự kiểm soát của Nhà nước. Nhưng bà đưa ra một quan niệm tinh tế hơn, bằng cách cho thấy rằng có rất nhiều cơ hội cho sự đổi mới, và – điều đáng ngạc nhiên hơn – là có một quy chế tập trung vào các quyền, giống như quy chế của Liên Minh vốn nhấn mạnh vào “trách nhiệm được chia sẻ”.
Điều quan trọng là đưa ra một quan niệm tinh tế về Trung Quốc, nhấn mạnh rằng không có mô hình nào là tuyệt đối. Các mô hình của Mỹ và Châu Âu có các yếu tố mang tính chỉ huy, trong khi mô hình của Trung Quốc cũng có các khía cạnh do thị trường định hướng, lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc được hưởng lợi đáng kể từ vốn đầu tư mạo hiểm của Mỹ chứ không chỉ từ trợ cấp của Nhà nước.
Đúng là kiểm soát chính trị là trọng tâm của mô hình quy chế của Trung Quốc do Nhà nước lãnh đạo. Nhân danh sự ổn định xã hội, chính phủ đang triển khai các công nghệ cho phép thực hiện giám sát rộng rãi công dân của mình đồng thời kiểm duyệt thông tin mà công dân có thể truy cập trực tuyến, sử dụng internet làm công cụ tuyên truyền. Để thực hiện chế độ kiểm duyệt quy mô lớn, chính phủ Trung Quốc cần sự giúp đỡ từ các công ty công nghệ của mình, sử dụng cả phần thưởng và lời đe dọa trừng phạt để đảm bảo sự hợp tác của chúng. Đây là những khía cạnh thiết yếu của cái mà tôi gọi là mô hình chuyên quyền kỹ thuật số, hoàn toàn khác xa so với mô hình định hướng thị trường của Mỹ và mô hình định hướng các quyền của Châu Âu.
Vấn đề mấu chốt mà chính quyền Hoa Kỳ phải đối mặt là làm thế nào để dung hòa nhu cầu cải cách quy chế với sự duy trì lợi thế công nghệ và khả năng cạnh tranh của họ trong bối cảnh toàn cầu.
ANU BRADFORD
Tuy nhiên, sự cai quản kỹ thuật số của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở việc áp bức và giám sát. Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghệ trong nước. Ngoài việc tránh quản lý ngành công nghệ thông qua các biện pháp cưỡng bức, Trung Quốc còn thực hiện chính sách công nghiệp chủ động. Trung Quốc đã cung cấp các khoản trợ cấp công hào phóng và áp dụng các biện pháp chính sách công nghiệp khác để đẩy nhanh sự phát triển công nghệ của đất nước và đảm bảo rằng Trung Quốc có thể tự cung cấp tất cả các công nghệ then chốt. Ví dụ, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch 10 năm vào năm 2015 được gọi là chương trình “Made in China 2025”, cho phép các doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc đầu tư vào các công nghệ quan trọng mang tính chiến lược, đồng thời cung cấp các khoản trợ cấp công hào phóng cho các công ty trong nước và khuyến khích đàm phán về hợp đồng chuyển giao công nghệ với các công ty kinh doanh tại Trung Quốc. Chương trình này đã bị chỉ trích nặng nề ở nước ngoài vì các mục tiêu và tác động bảo hộ của nó, khiến chính phủ phải từ bỏ mọi quy chiếu rõ ràng đến chương trình này, trong khi vẫn tiếp tục theo đuổi các mục tiêu của mình trên thực tế.
Chính phủ Trung Quốc cũng rất coi trọng việc bảo vệ người tiêu dùng và không yên tâm với việc các công ty nào khai thác dữ liệu của người tiêu dùng. Nếu Nhà nước được phép sử dụng những dữ liệu này thì cũng có những hạn chế bị áp đặt đối với những gì các công ty có thể làm với những dữ liệu đó. Cách tiếp cận này thể hiện rõ trong các lĩnh vực như luật cạnh tranh và tính riêng tư của các dữ liệu, những lĩnh vực có quan điểm rõ ràng chống lại việc lợi dụng quyền của người tiêu dùng. Về vấn đề này, có những điểm tương đồng với Liên Minh châu Âu, đặc biệt là ở luật bảo vệ dữ liệu của Trung Quốc. Tuy nhiên, mặc dù luật này được mô hình hóa dựa trên GDPR (Quy định bảo vệ dữ liệu chung của Liên minh châu Âu – ND), nhưng GDPR lại dự kiến các ngoại lệ cho sự giám sát của Nhà nước.
Kể từ cuối năm 2020, mô hình quy chế của Trung Quốc đã chuyển sang hướng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn đối với ngành công nghệ trong nước, cho thấy rằng chính phủ đang đánh giá lại một cách cơ bản thị trường mà Nhà nước đã ký kết ban đầu với các công ty công nghệ Trung Quốc. Trước tiên chính phủ đã công bố những chính sách chống độc quyền mới rất nghiêm ngặt, khiến thị trường toàn cầu phải ớn lạnh. Bắc Kinh cũng công bố quy định mới hạn chế việc thu thập thông tin cá nhân bằng ứng dụng di động. Sau đó, các cơ quan điều tiết đã phổ biến các quy định về sự tiếp thị trực tuyến, hiện đang là xu hướng chính trong thương mại điện tử Trung Quốc. Cuối cùng, cơ quan lập pháp Trung Quốc đã ban hành một luật bảo mật dữ liệu đồ sộ, đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt đối với các danh mục dữ liệu rộng rãi, hạn chế việc chuyển dữ liệu xuyên biên giới. Các hoạt động mang tính quy chế đã diễn ra chóng mặt vào năm 2021, đặc biệt nhắm vào các lĩnh vực công nghệ tài chính, thương mại điện tử, giáo dục tư nhân, trò chơi và giải trí trực tuyến. Sự khảo sát tỉ mỉ các quy chế mới này phần nào phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của Bắc Kinh vào việc phân phối lại của cải và nhu cầu cấp thiết của Bắc Kinh là tìm kiếm “sự thịnh vượng chung” khi đối mặt với những sự chia rẽ và bất bình đẳng xã hội trong xã hội Trung Quốc. Chính phủ cũng đang đáp lại sự phẫn nộ của công chúng đối với hoạt động kinh doanh của các công ty công nghệ lớn. Chính phủ Trung Quốc cũng muốn thiết lập lại quyền kiểm soát đối với ngành công nghiệp đã phát triển đến mức đe dọa quyền lực và ảnh hưởng của Nhà nước, đồng thời hướng ngành công nghệ của mình sang các lĩnh vực có liên quan đến chiến lược hơn có thể hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế lâu dài của đất nước.
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang Liên Minh Châu Âu. Cách tiếp cận dựa trên các quyền được áp dụng vào thực tế như thế nào?
Mô hình châu Âu cho rằng các chính phủ đóng vai trò trung tâm trong việc định hướng nền kinh tế kỹ thuật số và việc huy động sự can thiệp mang tính quy chế để thực thi các quyền cơ bản của cá nhân, bảo tồn các cấu trúc dân chủ của xã hội và đảm bảo sự phân phối lợi ích thu được một cách công bằng từ nền kinh tế kỹ thuật số. Lập trường thuận lợi cho sự quy chế hóa này không chỉ giới hạn ở lĩnh vực công nghệ mà còn phản ánh tầm nhìn rộng hơn về hoạt động của thị trường và vai trò tối ưu của các cơ quan công quyền, phù hợp với nền tảng hiến pháp của sự hội nhập châu Âu, dựa trên các giá trị.
Quyền riêng tư, được quy định trong Công ước Châu Âu về Nhân quyền và Hiến chương về các Quyền Cơ bản của Liên Minh Châu Âu, là một ví dụ điển hình. Văn bản Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR), quy định các biện pháp chi tiết nhằm bảo vệ quyền riêng tư, đã trở thành “tiêu chuẩn vàng” toàn cầu. Cơ quan tư pháp của Liên Minh Châu Âu (EU) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng phạm vi quyền của công dân EU trong lãnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân trong khuôn khổ một số quyết định mang tính lịch sử ủng hộ việc bảo vệ quyền riêng tư, đặc biệt là trong vụ Google Spain, còn được biết đến là “quyền được lãng quên”.
Một ví dụ khác là sự tiết chế các nội dung trực tuyến. Cho đến gần đây, EU đã dựa vào quy định tự nguyện, chẳng hạn như thông qua quy tắc ứng xử không ràng buộc năm 2016 về việc chống phát ngôn hằn thù bất hợp pháp trên mạng, được ký kết với một số công ty công nghệ khổng lồ. Về sự tuyên truyền khủng bố, EU đã thông qua vào năm 2021 một quy định ràng buộc về sự ngăn chặn việc phổ biến nội dung khủng bố trên mạng, nhằm mục đích đạt được sự cân bằng giữa các quyền cơ bản của tất cả các bên liên quan. EU cũng quyết tâm hạn chế việc lan truyền thông tin sai lệch trên mạng vì những tác động có hại của nó đối với nền dân chủ. Ủy Ban Châu Âu cũng đã phát triển một quy tắc không có tính ràng buộc về thông tin sai lệch, trong phiên bản cập nhật năm 2022, đã được các nền tảng trực tuyến chính ký. Các bên ký kết tự nguyện cam kết thực hiện các biện pháp như tăng cường tính minh bạch trong quảng cáo chính trị, đóng tài khoản giả, tạo điều kiện kiểm tra các sự kiện, vô hiệu hóa việc lan truyền thông tin sai lệch và cấp cho các nhà nghiên cứu quyền truy cập vào dữ liệu để tạo điều kiện nghiên cứu thông tin sai lệch. Để bổ sung cho các quy tắc và quy định hiện có này, EU đã thông qua Đạo luật dịch vụ kỹ thuật số (DSA) vào năm 2022, đạo luật này thiết lập chế độ giải trình và minh bạch toàn diện và ràng buộc về mặt pháp lý cho các nền tảng trực tuyến rất lớn liên quan đến nội dung mà chúng lưu trữ.
Công cụ chính sách quan trọng khác của EU là luật cạnh tranh. Mặc dù công cụ này được triển khai theo truyền thống để thúc đẩy hiệu quả thị trường hơn là sự công bằng, Ủy viên Margrethe Vestager tin rằng chính sách cạnh tranh có thể giúp tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn, nơi ngay cả những đối thủ nhỏ cũng có thể cạnh tranh với các công ty khai thác hùng mạnh. Một số quyết định gần đây của Ủy Ban, chẳng hạn như vụ kiện Google Shopping năm 2017, minh họa cách khái niệm công bằng này ảnh hưởng đến hành động chống độc quyền của EU trong thực tế, phản ánh và củng cố mô hình quy chế dựa trên các quyền. Nhưng cũng có sự đồng thuận ngày càng tăng rằng hộp công cụ thực thi của Liên Minh, vốn dựa vào việc thực thi hậu nghiệm luật cạnh tranh là chưa đủ. Những cuộc điều tra này mất nhiều thời gian và thường không giải tỏa được sự cạnh tranh. Các đối thủ nhỏ không thể tồn tại trên thị trường trong một thập kỷ để Ủy Ban thu thập bằng chứng và xây dựng vụ kiện chống lại một công ty thống trị. Chính để đáp ứng phần nào những lo ngại này mà EU đã thông qua một quy chế tiên nghiệm mới về cạnh tranh vào năm 2022: Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA). Khi mô tả các mục tiêu của luật, Ủy Ban nhấn mạnh rằng “đề xuất của DMA quan tâm đến sự mất cân bằng kinh tế, các hoạt động thương mại bất chính của những người gác cổng và những hậu quả tiêu cực của chúng, chẳng hạn như sự suy yếu của khả năng cạnh tranh của các thị trường nền tảng”.
Một lời chỉ trích phổ biến đối với cách tiếp cận quy chế của Liên Minh Châu Âu, ít nhất là ở Hoa Kỳ, là nó cản trở sự đổi mới và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt vì quy chế không thể theo kịp sự bùng nổ đổi mới công nghệ. Ví dụ: trong khi gói quy định của EU đang được tranh luận vào năm 2022, chúng ta đã chứng kiến sự bùng nổ của AI tạo sinh. Tuy nhiên, bà cho rằng lời chỉ trích này là vô căn cứ.
Quả thực, mô hình châu Âu thường bị chỉ trích vì thực hiện quá nhiều quy định, đến mức giết chết sự đổi mới và kìm hãm sự tiến bộ kinh tế. Theo quan điểm này, nếu EU thành công hơn trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của cá nhân và cơ cấu dân chủ của xã hội, cách tiếp cận mang tính quy chế của nó sẽ tước đi các cơ hội kinh tế của xã hội. Mối lo ngại này xuất phát từ niềm tin rộng rãi rằng có sự đánh đổi không thể tránh khỏi giữa quy chế và đổi mới. Tuy nhiên, mặc dù đúng là cho đến nay EU đã kém thành công hơn trong việc sản sinh ra các công ty công nghệ hàng đầu, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, nhưng có những lý do khác ngoài quy chế chủ yếu giải thích cho thực tế này.
Công cụ chính sách quan trọng khác của EU là luật cạnh tranh.
ANU BRADFORD
Chắc chắn có nhiều điều châu Âu chưa làm được khi khuyến khích đổi mới. Một trong những trở ngại chính mà các công ty công nghệ của EU phải đối mặt là những công ty công nghệ này không được hưởng lợi từ một thị trường kỹ thuật số duy nhất được tích hợp đầy đủ, cho phép hoạt động liền mạch trên toàn bộ lãnh thổ châu Âu một cách minh bạch. Điều này phần nào giải thích tại sao các công ty công nghệ châu Âu gặp khó khăn để xây dựng sự hiện diện trên một thị trường tương đương với các đối thủ Mỹ và Trung Quốc. Một trở ngại lớn khác là thiếu một thị trường vốn sâu và tích hợp cho phép các công ty châu Âu tài trợ cho những đổi mới của họ ở châu Âu. Thay vào đó, các công ty của Liên Minh thường phải dựa vào thị trường vốn ở Mỹ để có cơ hội tăng trưởng. Sự vắng mặt của những công ty công nghệ khổng lồ Châu Âu cũng có thể được giải thích bằng các rào cản pháp lý và văn hóa đối với việc chấp nhận rủi ro và tinh thần kinh doanh ở Châu Âu. Luật phá sản mang tính trừng phạt của EU đã khiến thất bại trở nên tốn kém đến mức các doanh nhân Châu Âu thường miễn cưỡng chấp nhận loại rủi ro cần thiết để thành lập các công ty công nghệ đầy tham vọng.
Cuối cùng, sự thiếu hụt đổi mới của Châu Âu có thể một phần là do EU không có khả năng thu hút những tài năng đổi mới tốt nhất thế giới thông qua một chính sách nhập cư chủ động. Các trường đại học là điểm tiếp cận then chốt cho sự nhập cư các tài năng, điều này thường dẫn đến sự hội nhập các sinh viên tốt nghiệp vào thị trường việc làm, như trường hợp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những lo ngại mới đang nổi lên, chẳng hạn như luật pháp Hà Lan hiện đang được chuẩn bị, có thể ngăn cản sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học Châu Âu. Những hạn chế chung như vậy có thể cản trở dòng chảy tài năng con người trọng yếu. Châu Âu không chỉ nên khuyến khích số lượng lớn sinh viên nước ngoài đến mà còn nên cung cấp cho họ những con đường rõ ràng để có được nơi cư trú và tạo điều kiện thuận lợi cho họ hội nhập vào thị trường lao động và mạng lưới nghề nghiệp. Hơn nữa, điều cốt yếu là Châu Âu phải được coi là nơi mà các doanh nhân mới chớm nở có thể thành công. Điều này liên quan đến việc tạo ra một thị trường kỹ thuật số thống nhất, đảm bảo nguồn tài chính có thể tiếp cận được và sự đền bù công bằng cho những đổi mới. Ở Hoa Kỳ, những người đổi mới thường tìm thấy một môi trường thuận lợi hơn nhiều, với sự hỗ trợ của các trường đại học, một bối cảnh đầu tư mạo hiểm năng động và ít hạn chế hơn để thu lợi từ những đổi mới của họ. Để Châu Âu trở nên hấp dẫn hơn đối với việc thành lập và phát triển các công ty công nghệ, điều cần thiết là phải thúc đẩy sự cởi mở của các trường đại học và thị trường lao động cũng như cải thiện toàn bộ hệ sinh thái khởi nghiệp. Khi làm như vậy, Châu Âu có thể trở thành một điểm đến hấp dẫn hơn cho các tài năng toàn cầu ở cội nguồn của tiến bộ công nghệ.
Sự vắng mặt của những công ty công nghệ khổng lồ Châu Âu cũng có thể được giải thích bằng các rào cản pháp lý và văn hóa đối với việc chấp nhận rủi ro và tinh thần kinh doanh ở Châu Âu.
ANU BRADFORD
Tất cả những điều này cho thấy rằng lựa chọn sự quy chế hóa ngành công nghệ nhân danh việc bảo vệ các quyền cá nhân và quyền tự do xã hội không phải là vấn đề của sự đổi mới ở Châu Âu. Nhận xét này cũng sẽ làm giảm bớt mối lo ngại của các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ và các bên liên quan khác về hệ quả dự kiếncủa việc áp dụng các quy chế kỹ thuật số kiểu Châu Âu.
EU cũng bị chỉ trích vì nỗ lực thiết lập các biện pháp rào cản AI. Những người gièm pha lo ngại rằng EU đang tiến triển quá nhanh về mặt quy chế, khi thậm chí còn chưa có đủ hiểu biết về việc AI sẽ phát triển như thế nào. Không thể phủ nhận rằng rất khó để quy chế hóa các công nghệ đang phát triển nhanh chóng như AI, nhưng điều này không nên được thể hiện qua sự bất động. Mặc dù người ta có thể muốn áp dụng cách tiếp cận chờ xem, đặc biệt là với các công nghệ mới nổi như AI, nhưng cách tiếp cận này có cái giá của nó. Việc trì hoãn quy chế có thể củng cố vị thế của những công ty dẫn đầu thị trường hiện tại, khiến việc điều tiết chúng một cách hiệu quả sau này càng trở nên khó khăn hơn. Sức mạnh của những người đi trước này đã là một thách thức và ảnh hưởng ngày càng tăng của họ chỉ làm tăng tính cấp thiết của việc quy chế hóa. Bất chấp những khó khăn, cần phải nhanh chóng quy chế hóa, ngay cả khi chúng ta chưa có kiến thức đầy đủ về các công nghệ đang phát triển nhanh chóng. Chi phí chờ đợi quá cao và việc quy chế hóa chủ động là điều cốt yếu.
Ở đây, khái niệm về quy chế “thách thức thời gian” được áp dụng. Điều quan trọng là phải phát triển các khuôn khổ linh hoạt có thể thích ứng với các công nghệ đang thay đổi. Điều này có thể kéo theo việc trao thêm thẩm quyền cho các cơ quan như Ủy Ban Châu Âu để diễn giải và điều chỉnh các quy chế tùy vào sự phát triển của công nghệ.
Khi nói về cách tiếp cận mang tính quy chế của EU, có vẻ như bà chủ yếu đề cập đến các nhà hoạch định chính sách ở Bruxelles. Nhưng liệu tất cả các quốc gia thành viên có đồng ý với cùng một chính sách hay không, hay một số trong số họ chủ động hơn những quốc gia khác?
Không có quan điểm thống nhất giữa tất cả các quốc gia thành viên của EU về những chi tiết của chính sách kỹ thuật số. Nếu sự cam kết cơ sở về các quyền cơ bản được chia sẻ, vẫn có nhiều sắc thái khác nhau. Ví dụ, Pháp, với những kinh nghiệm gần đây về khủng bố, dễ chấp nhận ngoại lệ về an ninh quốc gia hơn Đức, quốc gia có xu hướng áp dụng cách tiếp cận tuyệt đối đối với tính riêng tư của các dữ liệu và các quyền cơ bản.
Tương tự như vậy, Pháp ủng hộ chính sách công nghiệp bảo hộ hơn, ủng hộ chủ quyền công nghệ. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của các nước Bắc Âu vốn nhấn mạnh lợi ích của việc mở cửa kinh tế toàn cầu, đặc biệt đối với các nền kinh tế định hướng xuất khẩu của họ. Những căng thẳng nội bộ này được phản ánh trong mô hình châu Âu và đôi khi đặt ra câu hỏi về tính gắn kết và chính đáng của mô hình. Ví dụ, Ba Lan và Hungary trong những năm gần đây đã làm tổn hại đến các cam kết của EU về các quyền và nền dân chủ, từ đó làm xói mòn uy tín của tất cả các nước trong khối trong việc bảo vệ các nguyên tắc này ở quy mô toàn cầu.
Tuy nhiên, những khác biệt này giữa các Quốc gia thành viên đôi khi cũng có thể dẫn đến một quy chế cân bằng hơn. Vì luật pháp Châu Âu phải tính đến các quan điểm khác nhau trong EU nên nó thường thể hiện sự thỏa hiệp, khiến nó trở thành mô hình thích hợp hơn cho các vùng pháp lý khác nhau. Nhu cầu thỏa hiệp cố hữu này ở Bruxelles, theo một cách nào đó, là sức mạnh của quy trình lập pháp của EU.
Một tiếng nói quan trọng hiện đang thiếu trong sự năng động đàm phán này: tiếng nói của Vương quốc Anh. Brexit có thay đổi cách tiếp cận của EU trong việc điều tiết nền kinh tế kỹ thuật số không?
Vương quốc Anh luôn là tiếng nói của các cách tiếp cận theo định hướng thị trường trong EU. Tuy nhiên, điều thú vị là nước này không đi chệch nhiều khỏi cách tiếp cận của Châu Âu sau Brexit và đã thực hiện các quy định nghiêm ngặt trong nền kinh tế kỹ thuật số. Ví dụ, dự luật an toàn trực tuyến của Anh nghiêm ngặt hơn DSA của EU về một mặt nào đó. Anh cũng có lập trường mạnh mẽ về luật cạnh tranh, bằng chứng là sự phản đối ban đầu (và sự chấp thuận sau đó) đối với việc Microsoft mua lại Activision. Bằng cách chuẩn bị luật tương tự như DMA của EU, Anh đang cho thấy rằng nước này không sử dụng tính độc lập về quy chế của mình để dỡ bỏ các quy định dựa trên các quyền. Anh dường như đang đi theo con đường trung gian, giữa mô hình Mỹ và châu Âu, và ít thiên về luật pháp mang tính quy phạm hơn. Nhìn chung, tôi coi Anh là nước chủ yếu dựa trên các quyền, mặc dù nước này có tích hợp một số khía cạnh theo định hướng thị trường.
Nhưng Brexit chắc chắn đã thay đổi cán cân tranh luận về chính sách kỹ thuật số trong EU. Khi không có tiếng nói của Vương quốc Anh, quan điểm của Pháp-Đức về chính sách công nghiệp có nhiều cơ hội hơn để thống trị. Liên minh thương mại tự do Bắc Âu mang tính sáng tạo và chín chắn về mặt công nghệ đang cố gắng đối trọng với những tiếng nói bảo hộ ngày càng nhiều này. Tuy nhiên, nếu không có sức nặng kinh tế của Vương quốc Anh, các quốc gia Bắc Âu này sẽ ít có ảnh hưởng hơn. Về phần mình, Pháp đã cố gắng thúc đẩy Liên Minh áp dụng chiến lược gợi nhớ đến mô hình Trung Quốc do Nhà nước lãnh đạo, với sự tham gia vào các cuộc chạy đua trợ cấp, với những kiểm soát xuất khẩu và những hạn chế đầu tư.
Do đó, Liên Minh dường như muốn phát triển chính sách công nghiệp cho nền kinh tế kỹ thuật số. Theo bà, cách tiếp cận này có phù hợp để đạt được mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghệ ở Châu Âu không?
Tôi hiểu sự cần thiết phải có chủ quyền công nghệ mạnh hơn để ứng phó với những thách thức địa chính trị phức tạp, nhưng tôi nghi ngờ rằng Châu Âu có thể đạt được chủ quyền này chỉ thông qua trợ cấp. Chi hàng tỷ USD để giảm nhẹ sự phụ thuộc vào chất bán dẫn nước ngoài có vẻ không thể chịu đựng nổi. Đúng hơn, tôi ủng hộ cách tiếp cận sáng tạo về chủ quyền, tập trung vào việc tăng cường năng lực công nghệ của Châu Âu. Điều này có thể bao gồm việc hoàn thành Thị trường chung kỹ thuật số và Liên minh thị trường vốn, cho phép các công ty công nghệ phát triển và tự tài trợ trong EU. Chúng ta cũng nên xem xét lại các luật phá sản mang tính trừng phạt quá mức gây cản trở việc chấp nhận rủi ro và phát triển một chiến lược nhân tài toàn diện để thu hút nhân tài toàn cầu đến với EU. Theo quan điểm của tôi, chiến lược này trọng yếu và hiệu quả hơn nhiều so với việc sử dụng chính sách công nghiệp tốn kém và chủ nghĩa bảo hộ có hại.
Tôi hiểu sự cần thiết phải có chủ quyền công nghệ mạnh hơn để ứng phó với những thách thức địa chính trị phức tạp, nhưng tôi nghi ngờ rằng Châu Âu có thể đạt được chủ quyền này chỉ thông qua trợ cấp.
ANU BRADFORD
Người Châu Âu không được quên rằng Bruxelles có quyền xuất khẩu cả những quy chế có lợi và có hại. Hiệu ứng Bruxelles là một công cụ mạnh mẽ có thể biến chủ nghĩa bảo hộ thành một chuẩn mực toàn cầu. Đây là lý do tại sao tôi kêu gọi sự thận trọng khi đối mặt với các quy chế bảo hộ có khả năng làm suy yếu chứ không cải thiện khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp Châu Âu.
Một khía cạnh thú vị khác mà bà nêu bật trong cuốn sách của mình là ba “đế chế kỹ thuật số” có xu hướng xuất khẩu mô hình của họ ra nước ngoài. Bà đã lập luận rằng mô hình Mỹ theo định hướng thị trường đang mất đi sự phổ biến cả ở Hoa Kỳ lẫn ở nước ngoài. Trung Quốc có hiệu quả hơn không?
Cách tiếp cận của Trung Quốc để xuất khẩu mô hình kỹ thuật số chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng. Đó là việc xây dựng các yếu tố then chốt của xã hội kỹ thuật số ở các vùng khác nhau, đặc biệt ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và một phần của Châu Âu. Cơ sở hạ tầng bao gồm mạng 5G, cáp ngầm, trung tâm dữ liệu và công nghệ thành phố thông minh, kể cả hệ thống giám sát, trong khuôn khổ Sáng kiến Con Đường Tơ Lụa kỹ thuật số.
Bằng cách xây dựng xương sống kỹ thuật số này, Trung Quốc không chỉ đặt nền tảng cho sự phát triển công nghệ trong tương lai tương thích với công nghệ của mình mà còn đảm bảo cho các nhà cung cấp Trung Quốc có thêm cơ hội sau này duy trì và mở rộng cơ sở hạ tầng này. Chiến lược này tăng cường đáng kể sự hiện diện và ảnh hưởng của các công ty Trung Quốc tại các vùng trên.
Sức mạnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của Trung Quốc đặc biệt hiệu quả vì đáp ứng nhu cầu sống còn về phát triển kỹ thuật số ở các vùng này. Khả năng dễ tiếp cận và tính sẵn có của cơ sở hạ tầng Trung Quốc khiến nước này trở thành sự lựa chọn thực dụng đối với nhiều quốc gia, đặc biệt khi các giải pháp do các công ty Châu Âu đề xuất có thể đắt hơn và do đó khó tiếp cận hơn. Như vậy, Trung Quốc đang khéo léo mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình và định hình con đường phát triển kỹ thuật số ở nhiều nơi trên thế giới.
Do đó, mô hình do Nhà nước lãnh đạo của Trung Quốc dường như đang lấn sân ở các vùng pháp lý khác, như bà đã trình bày trong cuốn sách của mình. Trong chừng mực nào sự bành trướng này là do ảnh hưởng của Trung Quốc, chứ không phải do chính sách thực dụng của các chính phủ nhận ra rằng họ không thể tự mình thúc đẩy nền kinh tế kỹ thuật số cạnh tranh, nhưng có thể tận dụng công nghệ kỹ thuật số để thiết lập quyền lực của mình?
Thế giới đang ngày càng hướng tới chủ nghĩa chuyên quyền, với ngày càng nhiều chính phủ tìm cách kiểm soát xã hội của họ nhiều hơn. Trong bối cảnh này, cách tiếp cận của Nhà nước Trung Quốc thường đóng vai trò là một mô hình có tiếng vang vì các lý do chính trị và ý thức hệ. Ví dụ của Trung Quốc đã chứng minh rằng giả định cho rằng tự do theo một cách nào đó là một phẩm chất nội tại của Internet là sai. Trung Quốc cũng đã cho thấy các chính sách hạn chế có thể cùng tồn tại với văn hóa đổi mới năng động như thế nào. Trái ngược với niềm tin phổ biến ở các nền dân chủ, một mô hình quy chế chuyên quyền do Nhà nước lãnh đạo rõ ràng có thể hỗ trợ một nền văn hóa năng động của doanh nghiệp tư nhân c có khả năng nuôi dưỡng tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Chính những đặc điểm hiển lộ này đã khiến phương Tây khó duy trì quan điểm cho rằng tự do là cần thiết cho sự đổi mới và thịnh vượng, khiến mô hình của Trung Quốc trở nên hấp dẫn đối với các nước đang tìm kiếm sự tăng trưởng kinh tế cùng với sự kiểm soát chính trị.
Trung Quốc đã cho thấy các chính sách hạn chế có thể cùng tồn tại với văn hóa đổi mới năng động như thế nào.
ANU BRADFORD
Những lý do để bắt chước mô hình Trung Quốc rất khác nhau. Đối với một số chính phủ, đây là sự chấp nhận theo đường lối chuyên quyền về mặt ý thức hệ, trong khi đối với một số chính phủ khác, đó là một quyết định thực dụng dựa trên các ưu tiên, nhu cầu và thách thức phát triển của họ. Các nước đang phát triển vốn cần một lộ trình phát triển kỹ thuật số thường ưu tiên các nhu cầu kinh tế trước mắt hơn các mối quan tâm thứ yếu như sự giám sát. Trong những bối cảnh này, quyền riêng tư có thể được coi là một thứ xa xỉ, khi người dân tập trung nhiều hơn vào các nhu cầu cơ bản và sự an toàn vật chất.
Trong cuộc trò chuyện trước đây về “hiệu ứng Bruxelles”, bà đã kết luận bằng cách nhận ra bản chất tiến hóa của sự động năng làm cơ sở cho ảnh hưởng của mô hình quy chế của Liên Minh ở nước ngoài, đặc biệt là khi xem xét sự thu hẹp tương đối của thị trường Châu Âu. Với những thay đổi địa chính trị và kinh tế gần đây, bà có thấy “hiệu ứng Bruxelles” đang bị xói mòn trong lĩnh vực kỹ thuật số không? Hay có những động năng mới đang xác định lại tầm ảnh hưởng và tầm quan trọng của hiệu ứng Bruxelles?
Tôi không nhất thiết thấy sự xói mòn của hiệu ứng Bruxelles trong lĩnh vực kỹ thuật số. EU đã có thể mở rộng ảnh hưởng của mình trên thị trường toàn cầu bằng cách tận dụng sức mạnh quy chế to lớn của mình để định hình chính sách bảo mật dữ liệu của các công ty công nghệ và chính phủ nước ngoài. Trong khi Hoa Kỳ xuất khẩu sức mạnh tư nhân còn Trung Quốc là sức mạnh cơ sở hạ tầng, thì mặt hàng xuất khẩu chính của EU trong lĩnh vực kỹ thuật số chắc chắn là sức mạnh quy chế của mình – một dạng sức mạnh mà cả các công ty công nghệ nước ngoài và các chính phủ khác, kể cả Hoa Kỳ và Trung Quốc, đều không thể né tránh hoàn toàn. Sức mạnh quy chế này xuất khẩu mô hình của Châu Âu dựa trên các quyền trên ra thế giới, cho phép EU đóng vai trò dẫn đầu, bên cạnh Hoa Kỳ và Trung Quốc, trong việc xây dựng nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu.
Bất chấp những khó khăn gần đây, Châu Âu vẫn tiếp tục đưa ra các quy chế kỹ thuật số quan trọng, chẳng hạn như DSA, DMA và hy vọng sẽ sớm có Đạo luật về AI, cũng như các pháp chế liên quan đến biến đổi khí hậu như Thỏa thuận Xanh (Green Deal). Những sáng kiến này chắc sẽ tiếp tục phát huy ảnh hưởng toàn cầu. Ví dụ: việc các cơ quan chức năng và các nhà nghiên cứu tăng cường khả năng truy cập thông tin về các mô hình và thuật toán kinh doanh của các nền tảng trong khuôn khổ của quy trình ASD sẽ làm sáng tỏ hoạt động toàn cầu của các nền tảng này, khi các công ty này không phát triển và triển khai các thuật toán riêng cho Châu Âu. Kết quả của những cuộc điều tra này sẽ được công khai trên toàn thế giới, giúp tăng tính minh bạch và trách nhiệm ở các thị trường khác. Hơn nữa, trong chừng mực DSA thành công trong việc buộc các nền tảng lớn phải chuẩn bị tốt hơn cho các rủi ro hệ thống, chẳng hạn như can thiệp bầu cử, thì những khoản đầu tư bổ sung này vào các biện pháp giảm thiểu rủi ro có thể ảnh hưởng đến chiến lược quản lý rủi ro toàn cầu của các công ty này. DSA cũng có thể đóng vai trò là hình mẫu cho các chính phủ khác để triển khai quy chế trong lĩnh vực này, dẫn đến hiệu ứng Bruxelles về mặt pháp lý và nêu bật khả năng của EU trong việc tác động đến luật pháp nước ngoài trong lĩnh vực này. Ngay từ bây giờ, các quy định của EU nhằm chống lại thông tin sai lệch và sự kích động thù hận đã truyền cảm hứng cho các nhà lập pháp nước ngoài thực hiện cải cách lập pháp.
EU cũng mở đường cho việc thực thi luật cạnh tranh tốt hơn trong nền kinh tế kỹ thuật số trên toàn cầu. Ví dụ: những cuộc điều tra của EU đối với Google kể từ năm 2010 đã nhận được sự chú ý đáng kể trên khắp thế giới và một số khu vực pháp lý đã khởi xướng các thủ tục tố tụng tương tự chống lại Google, đặc biệt là Nga, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tính đến mùa hè năm 2021, Apple, Amazon, Google và Meta là đối tượng của hơn 70 cuộc điều tra chống độc quyền trên toàn thế giới. Điều thú vị cần lưu ý là hơn 50 khiếu nại như vậy đã được nộp trong hai năm qua, điều này phản ánh sự năng động ngày càng tăng gần đây trên quy mô toàn cầu. Khi các quốc gia rời xa mô hình Mỹ định hướng thị trường, họ đang áp dụng, hoặc thậm chí bắt chước trực tiếp, mô hình Châu Âu định hướng các quyền. EU cũng đang chỉ đường cho các chính phủ đang tìm cách tăng cường các công cụ quy chế của họ để kiềm chế tốt hơn sức mạnh thị trường của các công ty công nghệ lớn và hành vi có hại gắn với quyền lực đó. DMA sáng tạo của Liên Minh, được thông qua vào năm 2022, đang được khắp thế giới theo dõi sâu sát, một số chính phủ đã du nhập hoặc xem xét đưa ra các quy định tương tự.
Các quy định của EU về chống thông tin sai lệch và sự kích động thù hận đã truyền cảm hứng cho các nhà lập pháp nước ngoài thực hiện cải cách lập pháp.
ANU BRADFORD
Nhìn chung, có một sự thay đổi đáng chú ý đối với cách tiếp cận của Châu Âu trong việc điều tiết nền kinh tế kỹ thuật số, nhất là khi sức hấp dẫn của mô hình do thị trường định hướng của Hoa Kỳ suy yếu.
Nhưng tôi lo lắng về cách Châu Âu sử dụng quyền lực quy chế toàn cầu này. Có một xu hướng hướng tới chủ nghĩa bảo hộ, điều mà tôi cảnh báo. Ví dụ, nếu Châu Âu bắt đầu sử dụng chính sách cạnh tranh như một công cụ chính sách công nghiệp để thúc đẩy các công ty hàng đầu của Châu Âu, như Tuyên ngôn Pháp-Đức về Chính sách Công nghiệp Châu Âu gợi ý, thì vô tình Châu Âu có thể trở thành nước xuất khẩu chủ nghĩa bảo hộ công nghệ lớn. Điều này có thể gây ra những hệ quả không lường trước được: các nền kinh tế mới nổi cũng có thể ưu tiên cho những công ty quốc gia hàng đầu của mình hơn là mua từ những công ty có tiềm năng của Châu Âu.
Bản chất tác động của “hiệu ứng Bruxelles” đối với các tiêu chuẩn toàn cầu có thể thay đổi nếu Châu Âu không xem xét cẩn thận những tác động của quyền lực quy chế của mình: Châu Âu nên chú ý đến cách các chính sách của mình được nhận thức và áp dụng ở cấp độ toàn cầu.
Do đó, “hiệu ứng Bruxelles” dường như mạnh mẽ hơn bao giờ hết đối với việc điều tiết nền kinh tế kỹ thuật số. Tuy nhiên, như bà đã chỉ ra, nhiều quốc gia chủ yếu quan tâm không phải đến quyền riêng tư và các quyền cơ bản khác mà đến các cơ hội kinh tế do các “đế chế kỹ thuật số” khác mang lại, đặc biệt là Trung Quốc. EU đôi khi dường như bị cám dỗ đưa ra giải pháp thay thế cho các khoản đầu tư của Trung Quốc vào cơ sở hạ tầng, thông qua các dự án như Sáng kiến Cổng vào Toàn cầu/Global Gateway Initiative. Bà có nghĩ những nỗ lực này sẽ thành công không?
EU phải đối mặt với một thách thức đặc biệt trong việc xuất khẩu mô hình quy chế của mình: EU chỉ ra con đường để đi đến những quy định tinh vi, bảo vệ quyền lợi, trong khi nhiều quốc gia chỉ đơn giản là thiếu cơ sở hạ tầng cơ bản và ưu tiên muốn có được cơ sở hạ tầng này. Vấn đề chính với sáng kiến ”Cổng toàn cầu” là EU không có đòn bẩy tài chính tương đương với Trung Quốc. Để cạnh tranh, Liên Minh phải cung cấp cho các nước được hưởng lợi những khoản đầu tư đáng kể và các điều kiện tài chính hấp dẫn, hiện không ngang bằng với những gì Trung Quốc chào mời, đặc biệt nếu chúng ta tính đến thực tế là các khoản đầu tư do Trung Quốc cung cấp phải chịu ít ràng buộc quy chế hơn.
EU cần có một nền ngoại giao kinh tế Châu Âu mạch lạc, điều hiện đang thiếu. Ví dụ: khi các công ty Châu Âu như Nokia và Ericsson đề xuất các giải pháp thay thế cho mạng 5G của Huawei cho các quốc gia khác, họ phải dựa vào sự hỗ trợ của chính phủ quốc gia của họ, Phần Lan và Thụy Điển, những quốc gia không thể đạt được mức hỗ trợ tài chính hoặc chính sách mà chính phủ Trung Quốc cung cấp cho những công ty Trung Quốc. Các chính phủ Châu Âu phải phối hợp để thống nhất các nỗ lực của họ ở cấp EU, không chỉ về mặt tài chính mà còn về mặt cam kết ngoại giao. Điều này bao hàm việc thiết lập mối quan hệ với các quốc gia Châu Âu khác và sự hiểu rõ những hệ quả của sự lựa chọn cơ sở hạ tầng của Trung Quốc thay vì cơ sở hạ tầng của Châu Âu. EU cũng nên thừa nhận sự cần thiết phải xây dựng năng lực và cung cấp sự hỗ trợ kinh tế trực tiếp cho các nước thứ ba như một phần của chiến lược kỹ thuật số của mình. Để thuyết phục các quốc gia này, việc nêu bật các ý tưởng và giá trị của Châu Âu là chưa đủ. Nó cũng đòi hỏi những khuyến khích tài chính xác thực và một chính sách ngoại giao khôn khéo.
Các căng thẳng chính trị, kinh tế và địa chính trị hiện nay đều cố gắng lợi dụng sự hấp dẫn của các mô hình quy chế đang cạnh tranh nhau. Bà đã đề cập đến nhiệt huyết mới đối với chính sách công nghiệp trong EU, điều này phần nào phản ánh những lo ngại về địa chính trị. Bà có thấy xu hướng chung hơn hướng tới chủ nghĩa biệt lập trên toàn cầu không?
Môi trường chính trị hiện tại cung cấp mảnh đất màu mỡ cho một loại chủ nghĩa bảo hộ công nghệ hay cho cho một loại chủ nghĩa dân tộc kỹ thuật số. Ngay cả trước khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, chủ nghĩa dân tộc kinh tế cũng thắng thế, làm suy yếu các thể chế ủng hộ sự mở cửa thị trường và sự hợp tác quốc tế dựa trên các quy tắc. Ngày nay, các chính phủ trên khắp thế giới đang ngày càng thay chính sách mở cửa bằng chính sách công nghiệp đậm nét chủ nghĩa dân tộc. Họ hạn chế đầu tư nước ngoài, hạn chế xuất khẩu và trợ cấp cho sản xuất trong nước trong khuôn khổ của sự thay đổi cơ cấu rộng lớn hơn trong nền kinh tế. Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 và hiện nay là các cuộc xung đột quân sự ở Ukraine và Israel-Palestine càng củng cố thêm những xu hướng này. Kết quả là nền kinh tế kỹ thuật số phần nào bị phân mảnh, với các luồng dữ liệu, công nghệ và đầu tư bị hạn chế, làm dấy lên nỗ lực toàn cầu để tìm kiếm chủ quyền công nghệ.
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng tự chủ toàn diện về công nghệ là mục tiêu khó đạt được đối với hầu hết các quốc gia, kể cả các cường quốc công nghệ lớn như Hoa Kỳ và Trung Quốc, do mức độ hội nhập của nền kinh tế kỹ thuật số ngày nay. Điều này đặc biệt đúng trong các ngành như chất bán dẫn, mà hệ sinh thái được tích hợp sâu sắc và chi phí nhân rộng rất cao. Do đó, việc tách rời hoàn toàn trong các ngành công nghệ như chuỗi cung ứng chất bán dẫn là rất khó xảy ra. Do đó, các quốc gia buộc phải duy trì mức độ cùng tồn tại, bất chấp áp lực để tách rời.
Tự chủ hoàn toàn về công nghệ là mục tiêu khó đạt được đối với hầu hết các quốc gia, kể cả các cường quốc công nghệ lớn như Hoa Kỳ và Trung Quốc.
ANU BRADFORD
Trong cuốn sách của tôi, tôi giải thích rằng sự năng động hiện nay đặt các quốc gia “giữa sự cạnh tranh và sự kiềm chế”. Tình huống này tóm tắt sự căng thẳng thường xuyên giữa sự leo thang của các áp lực và sự cần thiết phải giảm leo thang. Luôn có sự cân bằng giữa lợi ích thương mại khuyến khích sự tham gia kinh tế liên tục và những lo ngại về an ninh quốc gia áp đặt các giới hạn cho sự tham gia đó. Cho đến nay, chúng ta chưa thấy sự tiến hóa cực đoan hướng tới sự leo thang hoàn toàn hoặc sự đình chiến lâu dài mà thay vào đó, chúng ta thấy mình liên tục phải điều hướng giữa những lợi ích phức tạp và thường mâu thuẫn này.
Với những sự phụ thuộc lẫn nhau này, trong một thế giới lý tưởng, việc quy chế hóa nền kinh tế kỹ thuật số là vấn đề của sự cai quản đa phương trên quy mô quốc tế. Ba “đế chế kỹ thuật số” tự định vị mình như thế nào trong cuộc tranh luận rộng rãi hơn về sự cai quản quốc tế trong lĩnh vực kỹ thuật số?
Hoa Kỳ và, ở một mức độ nào đó Châu Âu, có truyền thống ưu tiên cách tiếp cận đa phương về sự cai quản nền kinh tế kỹ thuật số. Mô hình này đánh giá cao sự tham gia của các quốc gia và tổ chức tư nhân, chẳng hạn như các công ty công nghệ, vào việc xác định các tiêu chuẩn và các khung của sự cai quản. Nó dựa trên niềm tin rằng các quy tắc được xây dựng thông qua sự hợp tác công-tư sẽ hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, Trung Quốc không mấy thoải mái với mô hình này vì họ cho rằng mô hình này mang lại quyền lực quá đáng cho các công ty Châu Âu và Mỹ. Trung Quốc ủng hộ việc chuyển các cuộc thảo luận này sang các tổ chức như Liên Hợp Quốc, nơi các quốc gia là những tác nhân chính và Trung Quốc có thể gây ảnh hưởng lên các nước đang phát triển. Bất chấp những nỗ lực của mình, Liên Hợp Quốc vẫn chưa trở thành trung tâm chủ yếu của các cuộc thảo luận này, khiến Trung Quốc ngày càng tham gia nhiều hơn vào các tổ chức nhiều bên liên quan và các cơ quan chuẩn hóa.
Nâng động hiện nay đặt các quốc gia giữa sự cạnh tranh và sự kiềm chế.
ANU BRADFORD
Tuy nhiên, một số nỗ lực đang được tiến hành, chẳng hạn như trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, nơi Liên Hợp Quốc đang cố gắng thiết lập các khuôn khổ cai quản. Mặc dù vị thế của Liên Hợp Quốc với tư cách là một diễn đàn đa quốc gia là thuận lợi nhưng uy tín của Liên Hợp Quốc đã bị suy giảm do hoạt động rối loạn của Hội Đồng Bảo An và sự thiếu tin tưởng hiện nay giữa các tác nhân chính trên toàn cầu. Theo lẽ chung, sự tham gia của các nền dân chủ có công nghệ tiên tiến như Châu Âu, Mỹ, Canada, Australia, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể dẫn đến sự đồng thuận lớn hơn giữa các đồng minh cùng chí hướng. Tuy nhiên, việc loại trừ một tác nhân lớn như Trung Quốc có nghĩa là loại trừ một phần đáng kể của sự phát triển của bất kỳ mô hình cai quản nào. Các thỏa thuận do Liên Hợp Quốc tổ chức có xu hướng mang tính (GIEC) hơn nhưng thường dẫn đến những thỏa thuận nông cạn hơn do sự đa dạng về lợi ích và ý thức hệ của các nước thành viên.
Trong lĩnh vực này, điều cần thiết là phải quản lý những kỳ vọng của chúng ta. Một cách tiếp cận thực tế có thể là thành lập một nhóm chuyên gia độc lập toàn cầu, tương tự như Nhóm chuyên gia liên chính phủ về biến đổi khí hậu (GIEC), tập trung vào việc quy chế hóa AI. Một cơ quan như vậy có thể nâng cao kiến thức khoa học và thúc đẩy sự cai quản tốt hơn giữa các quốc gia, điều này có vẻ khả thi hơn việc đàm phán một hiệp ước chi tiết trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc.
Nếu không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được sự hợp tác quốc tế và khi có tính đến sự phát triển của các nhân tố công nghệ, kinh tế và địa chính trị, bà có nghĩ rằng các mô hình quy chế chính sẽ hội tụ hay tách xa nhau hơn nữa không?
Sắc lệnh gần đây của Tổng thống Biden về bảo mật AI là một ví dụ rõ ràng về việc Hoa Kỳ đang hướng tới phong cách cai quản kỹ thuật số của Châu Âu. Văn bản thể hiện sự cam kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ quyền lợi và giảm thiểu tác hại của AI. Tuy nhiên, năng lực lập pháp của Hoa Kỳ bị hạn chế do Quốc hội bị chia rẽ và phân cực, khiến các sắc lệnh trở thành một lựa chọn khả thi hơn đối với các quy chế.
Sắc lệnh hành pháp gần đây của Tổng thống Biden về bảo mật AI là một ví dụ rõ ràng về việc Hoa Kỳ đang hướng tới phong cách cai quản kỹ thuật số của Châu Âu.
ANU BRADFORD
Cách tiếp cận của Mỹ, như được phản ánh trong sắc lệnh, dường như thiên về quy chế theo ngành. Nó nhằm mục đích cung cấp cho các cơ quan khác nhau, trong lĩnh vực của họ, quyền hạn để thực thi luật pháp hiện hành, mở rộng mở rộng phạm vi áp dụng luật hiện tại sang AI. Phương pháp này khác với luật pháp Châu Âu, nơi có cách tiếp cận theo chiều ngang và do đó có tính ràng buộc đối với một phổ kinh tế rộng lớn. Phần lớn các sắc lệnh của Hoa Kỳ bao gồm các biện pháp thực hành tốt nhất và vẫn mang tính tự nguyện đối với các doanh nghiệp, khiến nó ít bị ràng buộc hơn nhưng vẫn thể hiện sự tiến hóa của các ưu tiên và kỳ vọng của Hoa Kỳ.
Các mục tiêu của Hoa Kỳ và của EU ngày càng thích nghi với nhau, điều có thể được tạo điều kiện thuận lợi qua sự đối thoại được thể chế hóa, chẳng hạn như cuộc đối thoại diễn ra trong Hội đồng Thương mại và Công nghệ. Sự hợp tác này mang lại lợi ích cho cả hai bên. Tuy nhiên, có sự không chắc chắn về chính quyền tiếp theo của Hoa Kỳ và về cách mà chính quyền này có thể ảnh hưởng đến quỹ đạo hiện tại của sự hợp tác xuyên Đại Tây Dương trong lĩnh vực quy chế. Nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một lời nhắc nhở thô bạo đối với người Châu Âu về tính dễ bị tổn thương của các mối quan hệ này trước các chu kỳ bầu cử của Hoa Kỳ, và có mối lo ngại tiềm ẩn về tính bền vững của cách tiếp cận hợp tác này sau các cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo.
Bà có quan điểm riêng của mình về cách thức điều hành “cuộc chiến giành lấy linh hồn của nền kinh tế kỹ thuật số”, đồng thời kêu gọi một cách tiếp cận bao trùm và dân chủ hơn đối với sự cai quản kỹ thuật số và một trật tự hiến pháp kỹ thuật số mới. Các yếu tố chính của cách tiếp cận bà muốn áp dụng trong lĩnh vực quy chế hóa nền kinh tế kỹ thuật số là gì? Và những biện pháp thực tiễn nào có thể được thực hiện để đạt được mục tiêu này?
Nhiệm vụ chính của chúng ta bây giờ là chứng minh rằng nền dân chủ tự do có thể cai quản hiệu quả nền kinh tế kỹ thuật số. Điều này là cần thiết, bởi vì giải pháp thay thế là sự cai quản của các chế độ chuyên quyền hoặc các công ty công nghệ không được kiểm soát. Trong bối cảnh hiện tại, Hoa Kỳ đang phải vật lộn với các vấn đề pháp luật, Châu Âu phải đối mặt với các vấn đề trong việc thực thi và Trung Quốc thì thực thi luật pháp một cách chuyên quyền. Kịch bản này có nguy cơ khiến chiến thắng của mô hình Châu Âu trở nên vô nghĩa nếu mô hình định hướng thị trường chiếm ưu thế trên thực tế và các công ty công nghệ vẫn không bị kiểm soát.
Cho dù có những thách thức này, tôi muốn nhấn mạnh rằng các chính phủ không nhất định sẽ thua trong cuộc chiến theo chiều dọc chống lại các công ty công nghệ, và các nền dân chủ kỹ thuật không chắc chắn sẽ thất bại trong cuộc chiến theo chiều ngang chống lại các chế độ chuyên chế kỹ thuật. Nhưng các chính phủ, đặc biệt ở Hoa Kỳ, phải giành lại và triển khai hiệu quả thẩm quyền quy chế hóa của mình. Những chính phủ này có quyền lực viết lại các luật chi phối các công ty công nghệ, nhưng điều này đòi hỏi phải có ý chí chính trị.
Các chính phủ không nhất định sẽ thua trong cuộc chiến theo chiều dọc chống lại các công ty công nghệ, và các nền dân chủ công nghệ không chắc chắn sẽ thất bại trong cuộc chiến theo chiều ngang chống lại các chế độ chuyên chế kỹ thuật.
ANU BRADFORD
Tương tự như vậy, Châu Âu phải chứng minh khả năng áp dụng hiệu quả các quy chế của mình. EU đã nhiều lần thừa nhận rằng kế quả của việc thực thi pháp luật của họ vẫn chưa được tốt và họ biết rằng họ phải tìm cách biến các giá trị đã được tuyên bố của mình và các luật mà họ đã thông qua thành những tiến bộ cụ thể trên thực tế. Việc áp dụng các quy chế mới như DMA, DSA và Đạo luật AI sẽ là một thử nghiệm mấu chốt. Nó sẽ gửi một thông điệp về tính khả thi và tác động của mô hình quy chế của Châu Âu trong việc định hình kết quả của thị trường và điều chỉnh nền kinh tế kỹ thuật số dựa trên các giá trị dân chủ. Các cơ quan thực thi pháp luật phải có đủ nguồn nhân lực và tài chính để đối đầu với sức mạnh của các công ty công nghệ, nghĩa là phải tuyển dụng các chuyên gia và trao quyền cho họ tận dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả. Các cơ quan điều tiết phải lựa chọn cuộc chiến của mình một cách chiến lược, bằng cách sử dụng nhiều công cụ khác nhau như luật cạnh tranh, luật bảo mật dữ liệu và luật tiết chế nội dung để gửi tín hiệu rõ ràng đến thị trường.
Các công ty công nghệ cũng phải nhận ra rằng họ không đủ khả năng để liên tục chống đối các cơ quan điều tiết. Hiện nay, họ phải gánh chịu sự thiếu hụt sâu sắc về lòng tin và thanh danh đối với những người ra quyết định chính trị và công chúng, điều này khiến họ không thể áp dụng lập trường hiếu chiến đối với các cơ quan điều tiết mà không gây ra phản ứng thậm chí còn mãnh liệt hơn. Lo sợ phải đối phó với sự chống đối của các cơ quan điều tiết, họ có thể chọn các cuộc chiến theo chiều dọc, chỉ chiến đấu trong một số cuộc chiến, trong khi từ bỏ các cuộc chiến khác. Một cách tiếp cận hợp tác, trong đó các công ty công nghệ tự nguyện làm việc với các cơ quan điều tiết, sẽ dẫn đến một nền kinh tế kỹ thuật số ổn định, dễ dự đoán và dễ cai quản hơn. Sự tiến hóa này là không thể tránh khỏi và việc đón nhận sự thay đổi này là điều cần thiết để tạo ra một bối cảnh kỹ thuật số dân chủ và bao trùm hơn.
Phạm Như Hồ dịch
Tác giả: Vasile Rotaru[*], Anda Bologa[**].
Nguồn: “Dans la guerre des empires numériques, une conversation avec Anu Bradfort”, Le grand continent,