
Có rất nhiều bài viết cảnh báo về tác hại của việc bị phơi nhiễm bởi các bức xạ tần số điện từ không dây. Nhưng nhiều người trong chúng ta, không biết vô tình hay cố ý đã xem nhẹ điều này. Xin chọn lọc để giới thiệu một vài bài viết tiêu biểu và cần thiết nhất. Trong phần một, xin chuyển ngữ và nhuận sắc từ bài viết của TS G. Null và R. Gale về vấn đề liên quan, để bảo vệ sức khỏe trẻ em.
Sự phát triển của công nghệ về tần số điện từ EMF (Electromagnetic Frequency) không dây đã tăng cường khả năng kết nối của cộng đồng con người với nhau. Chúng ta được mời mọc bởi sự tưởng tượng kỳ diệu ngoạn mục của một hệ thống tích hợp duy nhất dành cho truyền thông, hiệu quả tài chính, ngân hàng, giao dịch và chuyển vận quốc tế cũng như vô số công cụ công nghệ trong tầm tay để giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống. Do đó, bức xạ tần số điện từ không dây và phơi nhiễm vi sóng ngày càng trở nên phổ biến hơn và sẽ tiếp tục thâm nhập vào mọi khía cạnh trong cuộc sống thường ngày của chúng ta mà không có lối thoát. Tuy nhiên, những cảnh báo về rủi ro và ảnh hưởng sức khỏe do phơi nhiễm EMF, đặc biệt đối với những nhóm người dễ bị tổn thương như trẻ em, đã được ghi chép đầy đủ trong nhiều thập kỷ và không được chú ý. Bên cạnh sự đồng tình ngẫu nhiên của những người được ủy quyền điều chỉnh mức EMF và theo dõi các rủi ro bất lợi của nó, bằng chứng khoa học về nguyên nhân quan trọng gây ra cảnh báo vẫn tiếp tục gia tăng và điều này đặc biệt đúng trong việc bảo vệ trẻ em khỏi EMF không cần thiết, hiện không thể chối cãi. Cơ quan liên bang bị ngành viễn thông và các nhà phát triển công nghệ không dây, lò vi sóng và các công nghệ sản xuất EMF khác nắm bắt đã cản trở mọi nỗ lực nhằm quản lý công nghệ này.
Trẻ em tiếp xúc với EMF từ nhiều thiết bị không dây khác nhau, chẳng hạn như điện thoại thông minh, máy tính bảng và bộ định tuyến Wi-Fi. Mặc dù các thiết bị này thường tuân thủ các nguyên tắc của Ủy ban Truyền thông Liên bang FCC (Federal Communications Commission), nhưng vẫn có những lo ngại nghiêm trọng về tác động tích lũy của việc tiếp xúc, đặc biệt đối với trẻ em sử dụng nhiều thiết bị không dây. Các nghiên cứu cho thấy rằng mức độ phơi nhiễm EMF của trẻ em từ các thiết bị không dây vượt xa giới hạn an toàn được khuyến nghị, đặc biệt là khi các thiết bị được giữ gần cơ thể trong thời gian dài.
Bằng cách kiểm tra các nghiên cứu hiện có được thực hiện bởi các nhà khoa học từ nhiều cơ quan và tổ chức trên thế giới để hiểu rõ hơn về cuộc khủng hoảng mà trẻ em ngày càng tiếp xúc với EMF đang phải đối mặt, có thể hướng dẫn các bậc cha mẹ và cộng đồng thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để bảo vệ con em chúng ta.
Có lẽ nghiên cứu quan trọng nhất điều tra tác động của phát thải EMF từ các thiết bị điện tử đối với sự phát triển trí não và xã hội của thanh thiếu niên là Nghiên cứu phát triển nhận thức não bộ, đã tuyển sinh 10.000 trẻ em và theo dõi chúng trong một thập kỷ. Những người dành nhiều giờ nhất mỗi ngày cho điện thoại di động, máy tính và các thiết bị không dây khác có tỷ lệ vỏ não mỏng đi nhanh chóng nhất, có liên quan đến lão hóa sớm, cũng như rất nhiều ảnh hưởng có hại khác.
RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
Giấc ngủ rất quan trọng cho sự phát triển thể chất và nhận thức đúng đắn của trẻ. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với trường điện từ từ các thiết bị không dây có thể làm gián đoạn giấc ngủ ở trẻ em. Một nghiên cứu năm 2010 cho thấy việc tiếp xúc với tần số vô tuyến EMF từ các trạm gốc của điện thoại di động có liên quan đến rối loạn giấc ngủ. Tương tự, một nghiên cứu khác báo cáo mối liên quan giữa việc tiếp xúc với trường điện từ từ các thiết bị không dây trong nhà và chứng rối loạn giấc ngủ ở thanh thiếu niên, nhất là trẻ nhỏ.
THIỆT HẠI DI TRUYỀN
Có rất nhiều nghiên cứu trên động vật xác nhận tác động bất lợi của EMF đối với biểu hiện di truyền và tính toàn vẹn DNA. Tuy nhiên, chúng ta chưa có đủ sự hỗ trợ để tiến hành nhiều thử nghiệm lâm sàng hơn để thu hút sự chú ý lớn hơn của công chúng về cuộc khủng hoảng. Những tác động lâu dài của EMF đối với hệ thống sinh sản nam và nữ của trẻ trước tuổi dậy thì cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để tìm ra phương cách ngăn ngừa ảnh hưởng, khi việc sử dụng EMF không dây càng ngày càng nhiều hơn, gây ra sự gián đoạn quá trình chuyển hóa của hệ thống sinh sản do tiếp xúc với EMF của điện thoại di động ẩn tàng nhiều tác dụng phụ. Chúng bao gồm giảm khả năng vận động của tinh trùng, rối loạn tổng hợp protein, nồng độ oxit nitric bất thường và sự gián đoạn chất chống oxy hóa trong tế bào mầm. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc tiếp xúc với EMF ảnh hưởng đến các kênh ion canxi, có khả năng làm gián đoạn tín hiệu canxi nội bào, vốn đóng vai trò quan trọng trong các quá trình của tế bào.
NGUY CƠ UNG THƯ
Hàng chục năm trước, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế IARC (International Agency for Research on Cancer) đã phân loại và kết luận điện từ trường là “có thể gây ung thư cho con người”. Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học nổi tiếng, như L. Hardell và M. Carlberg, đã xác định được mối liên hệ giữa việc tiếp xúc lâu dài với trường điện từ và tăng nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em. Những nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu từ trẻ em tiếp xúc với nhiều nguồn bức xạ điện từ khác nhau, bao gồm đường dây điện và thiết bị không dây. Kể từ đó, các nghiên cứu khác đã xác nhận rằng trẻ em sống gần đường dây điện cao thế trên cao có nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cao hơn, hỗ trợ thêm cho tác động gây ung thư tiềm tàng của EMF. Điều này không chỉ đúng với bức xạ nhiệt mà còn đúng với bức xạ không ion hóa cường độ thấp không nhiệt hiện được cho là góp phần làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư não, đặc biệt là u nguyên bào thần kinh đệm, ở trẻ em và thanh thiếu niên trên khắp các quốc gia phát triển.
Các cơ quan quản lý của chính phủ không giải quyết được mối nguy hiểm này. Ủy ban Y tế Môi trường EHT (Environmental Health Trust) lưu ý rằng các quy định của chính phủ về việc sử dụng điện thoại di động không dây được đánh giá dựa trên cơ sở giải phẫu đầu của con người. Đầu của trẻ em nhỏ hơn đáng kể, hộp sọ của chúng mỏng hơn và do đó trẻ em “có thể hấp thụ bức xạ trong tủy xương hộp sọ tới 10 lần so với người lớn”. Một phân tích của Đại học Utah đã báo cáo rằng mức phơi nhiễm EMF tăng theo tỷ lệ gộp từ 10-15% cho mỗi milimet gần ăng-ten của điện thoại di động. EHT chỉ trích các tiêu chuẩn bức xạ của điện thoại di động của FCC vì đã bỏ qua những “lỗ hổng đặc biệt” này trong cơ thể trẻ em cũng như phụ nữ mang thai. Bộ não trẻ hơn cũng sẽ hấp thụ nhiều bức xạ hơn vào mắt và chất xám của não theo tỷ lệ tương ứng.
Một nguy cơ gây ung thư khác là bức xạ điện tử làm gián đoạn hoạt động của tế bào gốc. Trong suốt quá trình phát triển, trẻ em có nhiều tế bào gốc hoạt động hơn người lớn. Tế bào gốc nhạy cảm hơn với bức xạ vi sóng so với các tế bào đã biệt hóa. Điều này khiến trẻ em dễ bị đứt gãy chuỗi DNA kép, góp phần gây đột biến gây ung thư.
TÁC DỤNG THẦN KINH
Tác dụng có hại của EMF đối với hệ thần kinh đã được ghi nhận rõ rang từ nhiều năm trước. Bất chấp vai trò quan trọng của oxy trong các phản ứng sinh học, oxy cũng có thể góp phần tạo ra các sản phẩm phụ độc hại được gọi là các loại oxy phản ứng ROS (reactive oxygen species), gây tổn hại đến protein, lipid và DNA. Tuy nhiên, hệ thống phòng thủ chống oxy hóa của cơ thể sẽ kiểm soát lượng oxy gốc. Một đánh giá của một tài liệu y khoa cho thấy một số nghiên cứu báo cáo rằng việc tiếp xúc với EMF dẫn đến stress oxy hóa ở các mô, DNA tế bào khác nhau và sẽ làm tăng nồng độ gốc tự do.
Các nghiên cứu thử nghiệm ban đầu được thực hiện bởi TS Volkow và các đồng nghiệp của cô cho thấy rằng việc tiếp xúc với bức xạ điện thoại di động có thể làm thay đổi hoạt động của não ở những vùng gần ăng-ten nhất. Những nghiên cứu này sử dụng kỹ thuật chụp ảnh não để đo lường những thay đổi trong quá trình trao đổi chất của não và hoạt động thần kinh sau khi tiếp xúc với trường điện từ. Do đó việc định lượng những thay đổi bất thường là rất chính xác. Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện của Volkow đã làm dấy lên mối lo ngại về tác động thần kinh tiềm tàng của việc tiếp xúc lâu dài với bức xạ điện từ. Điều này đã được xác nhận trong nhiều nghiên cứu sâu hơn.
Một số nghiên cứu riêng biệt từ một số trường Đại học còn cho thấy mối liên quan giữa phơi nhiễm trước khi sinh do bức xạ điện thoại di động của bà mẹ và rối loạn phát triển thần kinh ở con họ sau đó. Những nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc xem xét các rủi ro tiềm ẩn của bức xạ điện từ trong các giai đoạn phát triển quan trọng của trẻ, thường có nguy cơ gây ra tính tăng động và suy giảm trí nhớ.
GIÁO DỤC và NHẬN THỨC
Chúng ta cần có hoạt động tích cực gây áp lực cho các Hiệp hội sức khỏe trẻ em và các cơ quan chính phủ sửa đổi các quy định liên quan đến giới hạn phơi nhiễm EMF. Điều này bao gồm việc thiết lập các hướng dẫn cụ thể cho bức xạ không ion hóa, xem xét các tác động phơi nhiễm tích lũy và kết hợp các kết quả nghiên cứu về các nguy cơ sức khỏe lâu dài tiềm ẩn liên quan đến EMF.
Do dữ liệu ngày càng được thu thập khi nghiên cứu tiếp tục xác định tác động của EMF đối với sinh học con người, nên áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, đặc biệt đối với trẻ em. Một khi công nghệ được phát triển để giảm đáng kể mức phơi nhiễm phóng xạ, điều cần thiết là phải hạn chế phơi nhiễm ở trẻ em và đặc biệt là ở trường học và phòng ngủ, nơi trẻ em dành một lượng thời gian đáng kể trong mỗi chu kỳ 24 giờ.
Các tổ chức như Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị hạn chế trẻ em tiếp xúc với các thiết bị không dây. Mặc dù Học viện nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục phụ huynh, giáo viên và chuyên gia chăm sóc sức khỏe về những rủi ro của EMF, nhưng không có khoản tài trợ đáng chú ý nào được chi để biến những mối lo ngại về sức khỏe này thành tình trạng khẩn cấp quốc gia. Tất nhiên, trường học và phụ huynh có thể áp dụng các phương cách ngăn ngừa như kết nối internet có dây, giảm thời gian sử dụng thiết bị và tạo khoảng cách với các thiết bị không dây để giảm thiểu phơi nhiễm EMF cho trẻ em, tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có một kế hoạch giáo dục chi tiết ở cấp quốc gia.
Các nhà sản xuất đang nỗ lực phát triển các thiết bị có bức xạ thấp, chẳng hạn như điện thoại di động có giá trị Tỷ lệ hấp thụ riêng SAR (Specific Absorption Rate) giảm, hay phát triển công nghệ không dây LI-FI an toàn hơn so với WI-FI theo một số nghiên cứu đã được thực hiện. Thật không may, chưa có đủ áp lực pháp lý buộc các tập đoàn viễn thông phải đạt được những tiến bộ lớn. Nghiên cứu khác tập trung vào việc khám phá khả năng che chắn điện từ để thiết kế các kỹ thuật nhằm giảm rủi ro phơi nhiễm mà không ảnh hưởng đến các chức năng công nghệ.
Khi chúng ta suy ngẫm về những tuyên bố lặp đi lặp lại của các chính trị gia và tổ chức của chúng ta rằng họ quan tâm đến sức khỏe và hạnh phúc của trẻ em, chúng ta cần nhìn sâu vào những lời nói để vạch trần lời nói nước đôi. Ngày nay, những tiếng nói “hung hãn” nhất muốn thuyết phục chúng ta rằng chính phủ là bậc cha mẹ có trách nhiệm hơn chính họ hàng ruột thịt của trẻ em. Chỉ gần đây các bậc cha mẹ mới thức tỉnh để chống lại điều kiện xã hội tập thể và những lời dối trá này.
Khi nào thì cha mẹ mới nhận ra rằng họ có thể đã vô tình góp phần vào sự chậm phát triển về thể chất, tinh thần và cảm xúc của con mình bằng cách cho chúng tự do sử dụng điện thoại di động, máy tính xách tay, máy tính bảng và các thiết bị phát ra EMF khác? Đây không phải là vấn đề dựa trên đẳng cấp và uy tín, giàu hay nghèo,… bởi không một đứa trẻ nào có thể được miễn nhiễm với EMF. Và chúng ta cần hiểu rằng, các quan chức quản lý tại EPA và FCC hoàn toàn bị các ngành công nghiệp viễn thông và không dây tư nhân xâm phạm, nên các bậc cha mẹ phải chịu trách nhiệm giám sát và kiểm soát việc con mình tiếp xúc với bức xạ EMF.
Huy Pham